Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn với Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Bình Thuận

1. Từ ngày 25 đến ngày 27/5/1946, Trung ương Đảng tổ chức hội nghị cán bộ lãnh đạo chủ chốt Nam Bộ bàn về công tác củng cố lại Đảng bộ Nam Bộ; cử đồng chí Lê Duẩn vào Nam Bộ làm Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ lâm thời.  

Sau khi Hiệp định sơ bộ (06/3/1946) bị Pháp phản bội, giao thông đường bộ chia cắt, hệ thống liên lạc bằng điện tín không còn. Ban giao thông liên lạc Trung ương tổ chức đường thư trục từ Việt Bắc đến huyện Hiên (Quảng Nam). Các tỉnh Khu V, Khu VI tổ chức tiếp đường dây đi vào các tỉnh Nam Bộ. Trung đoàn 81 giao nhiệm vụ cho đồng chí Đặng Quang Cầm cùng một trung đội xoi đường từ Bác Ái ra Khánh Hòa đến Phú Yên. Tuyến đường giao liên từ Phú Yên qua Khánh Hòa, Bình Thuận vào giáp miền Đông Nam Bộ vinh dự được Ủy ban kháng chiến Nam Việt Nam đặt tên là “Đường mòn Hồ Chí Minh”. Trên địa bàn tỉnh Bình Thuận, tuyến đường giao liên được chia làm 2 nhánh: trên bộ và biển do Trung đoàn 82 tổ chức. Hai nhánh đường này đưa, đón hàng trăm đoàn cán bộ lãnh đạo cấp cao Trung ương như các đờng chí: Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Linh...Xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong là một trong những trạm giao thông liên lạc đó.

Tháng 6/1946, đoàn công tác của đồng chí Lê Duẩn vào đến xã Bình Thạnh. Việt Minh và Ủy ban xã nhờ vợ chồng ông Huỳnh Tiếng (Bổn Tiếng), bà Phạm Thị Nhường - một gia đình cách mạng trung kiên, nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ. Do địch đánh phá ác liệt, đoàn công tác chưa đi được vào chiến khu Ô Rô, nên đồng chí Lê Duẩn ở lại Bình Thạnh gần một tháng. Khi địch vào nhà vợ chồng ông bà Huỳnh Tiếng, Phạm Thị Nhường lục soát, kiểm tra, đồng chí Lê Duẩn nhanh chóng ra trú ở hầm bí mật ở phía sau nhà. Địch lùng sục ngoài rào, khắp nhà và cả nơi đặt hầm bí mật, đồng chí Lê Duẩn vẫn an toàn, không bị lộ.

Trong thời gian lưu lại Bình Thạnh, đồng chí Lê Duẩn được các cán bộ huyện Tuy Phong như: Trần Đình Quảng (Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác, một hình thức hoạt động của Đảng sau khi tuyên bố rút vào hoạt động bí mật), Phạm Quỳnh Đồng (Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện) cùng một số cán bộ xã đến thăm và trao đổi ý kiến. Sau khi nghe lãnh đạo địa phương báo cáo tình hình, đồng chí Lê Duẩn có nhiều ý kiến quan trọng về chiến tranh nhân dân, công tác quần chúng, bồi dưỡng sức dân, đoàn kết dân tộc. Do buổi đầu công tác lãnh đạo kháng chiến còn hạn chế, nên ý kiến của đồng chí Lê Duẩn giúp cho huyện nhiều điều. Trong quá trình kháng chiến, các quan điểm của đồng chí Lê Duẩn đã giúp cán bộ huyện Tuy Phong tháo gỡ khó khăn trong lãnh đạo, chỉ đạo. Sau khi tình hình tạm yên ổn, đoàn công tác tiếp tục đi vào Ô Rô, vào phía Nam Bình Thuận. Đầu năm 1947, đồng chí Lê Duẩn đặt chân đến núi Chứa Chan thuộc Bà Rịa, địa đầu của miền Đông Nam Bộ([1]).

Với việc hầm bí mật bảo vệ đồng chí Lê Duẩn thoát khỏi sự càn quét, lùng sục của địch, từ đó xã Bình Thạnh đã phát động phong trào xây dựng nhiều hầm bí mật để nuôi giấu cán bộ. Tháng 10/1946 (sau khi đoàn công tác của đồng chí Lê Duẩn lên đường vào Nam bộ), Chi bộ Đảng xã Bình Thạnh được thành lập và Nghị quyết đầu tiên của chi bộ (quy ước, bất thành văn), “đào nhiều hầm bí mật, xây dựng làng chiến đấu”([2]). Hưởng ứng chủ trương của Chi bộ xã, hàng trăm hầm bí mật trong xã ra đời, tăng gấp nhiều lần so với trước. Nhiều kiểu hầm kiên cố, chống cát lún sụt ra đời, vách được dựng bằng ván gỗ, xây bằng đá san hô, hoặc đá quánh. Hầm được đào giữa nhà, miệng hầm dưới bàn thờ tổ tiên; hầm đào gần giếng nước, miệng hầm trổ ra thành giếng nước, người trú ẩn phải leo trèo xuống giếng, lặn xuống nước mới vào được hầm trú ẩn; hầm được đào ngay dưới bếp nấu, nắp hầm là “ba ông đầu rau”…Hệ thống hầm bí mật xã Bình Thạnh trở thành vũ khí lợi hại chống giặc, bảo vệ tài sản của người dân, bảo vệ cán bộ địa phương cũng như cán bộ cao cấp của Trung ương từ Bắc và Nam và ngược lại, dừng chân tại trạm Bình Thạnh khi bị địch càn quét. Từ năm 1946 đến 1948 chưa lần nào địch phát hiện được hầm bí mật có cán bộ trú ẩn. Hầm bí mật bảo vệ an toàn nhiều đoàn cán bộ Trung ương dừng chân ghé lại, cũng như bảo vệ đồng chí Lê Duẩn trong kháng chiến chống Pháp trở thành niềm tự hào của người dân Bình Thạnh.

2. Qua đối chiếu các tập sách lịch sử, tư liệu, xin được bàn thêm về lộ trình và thời gian đồng chí Lê Duẩn đến Bình Thạnh. Theo tập Tiểu sử Lê Duẩn, sau hội nghị từ ngày 25 đến 27/5/1946, đồng chí Lê Duẩn “lặng lẽ lên đường” bằng tàu hỏa, xuất phát từ Hà Nội và xúc động mạnh khi “tàu về đến Quảng Trị” (quê hương của đồng chí Lê Duẩn - Tg). Ghé thăm nhà được một đêm, đồng chí vội vã ra đi. Đến Huế, tranh thủ làm việc với đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế. Sau đó, vào Quảng Ngãi, dừng chân hơn một tuần để tham gia giảng bài lớp huấn luyện cấp tốc về quân sự và chính trị cho cán bộ các tỉnh. Đồng thời, gặp vợ mình là bà Lê Thị Sương được tổ chức sắp xếp đi ô tô từ Quảng Trị vào Quảng Ngãi. Lúc bà Sương lên xe từ Quảng Ngãi về Quảng Trị cũng là lúc đồng chí Lê Duẩn đi mãi về phương Nam. Đầu năm 1947, đồng chí Lê Duẩn đặt chân đến núi Chứa Chan, thuộc Bà Rịa. Rất tiếc tập Tiểu sử Lê Duẩn, không chép lại đoạn đường đồng chí đi từ Quảng Ngãi qua Ninh Thuận, Bình Thuận đến núi Chứa Chan.

Tham khảo các cuốn sách lịch sử địa phương, chắp nối các thông tin rời rạc, phát thảo được vài nét lộ trình đồng chí Lê Duẩn trên vùng đất Cực Nam Trung bộ. Tháng 7/1947, đồng chí Lê Duẩn đến CK7 Ninh Thuận (Chiến khu 7, trong kháng chiến chống Pháp, tỉnh Ninh Thuận chia địa bàn ra thành nhiều “chiến khu” viết tắt là CK - Tg), đi bộ vào Vĩnh Hảo. Chùa Linh Sơn (xã Vĩnh Hảo) đón chăm sóc, bảo vệ an toàn đồng chí Lê Duẩn dừng chân dưỡng sức một tuần lễ tại đây. Ngày lên đường, địa phương cử 4 tự vệ bí mật dùng ghe chở đồng chí Lê Duẩn vào trạm Bình Thạnh ở lại gần một tháng, vào Ô Rô (Khu Lê Hồng Phong) và vào miền Đông Nam Bộ.

Đồng chí Lê Duẩn đến Bình Thạnh năm 1946 hay năm 1947? Vài cuốn lịch sử địa phương đưa ra các mốc thời gian như sau: tháng 7/1947 (Bưu điện Bình Thuận, tr.38); năm 1947 và ở lại dưỡng sức một tuần lễ trước khi vào Bình Thạnh (Lịch sử xã Vĩnh Hảo, tr.21); tháng 6/1947, sau đó ở lại Bình Thạnh gần 1 tháng (Lịch sử Tuy Phong, tr.195 Lịch sử xã Bình Thạnh, tr.51). Tuy vậy, trong Lịch sử xã Bình Thạnh, phần hình ảnh minh họa chú thích là tháng 10/1947. Dù khác nhau về tháng (6, 7 và 10) nhưng các tập sử nêu trên đều cho rằng đồng chí Lê Duẩn đến Bình Thạnh vào năm 1947. 

Trong khi đó, tập sách Tiểu sử Lê Duẩn không nêu chính xác đồng chí Lê Duẩn lên đường vào Nam vào lúc nào. Chỉ biết rằng, sau hội nghị từ ngày 25 đến 27/5/1946, trong tháng 6/1946, đồng chí Lê Duẩn được Trung ương phân công dẫn phái đoàn Quốc hội và Mặt trận Liên - Việt đi thăm tiền tuyến, đến tận Cực Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Khi đồng chí trở lại Hà Nội thì các đại biểu Nam Bộ đã lên đường trở về địa phương. Như vậy, đồng chí Lê Duẩn vào Nam phải từ tháng 6/1946 trở về sau. Mặc khác, tập sách Tiểu sử Lê Duẩn có chi tiết,“…sau ba tháng thăm Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về nước an toàn (Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường thăm Cộng hòa Pháp từ  ngày 31/5 đến ngày 21/10/1946 - Tg). Do yêu cầu cấp thiết của mặt trận, trước khi trở lại miền Nam, đồng chí Lê Duẩn đã không được gặp lại Chủ tịch Hồ Chí Minh để nghe Người khuyên bảo, dặn dò. Đó là điều đồng chí cảm thấy nuối tiếc nhất…”. Từ chi tiết trên khẳng định lập luận, đồng chí Lê Duẩn lên đường vào Nam từ sau tháng 6/1946 và khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Pháp về nước vào tháng 10/1946, đã không còn gặp đồng chí Lê Duẩn tại Hà Nội. Đầu năm 1947, đồng chí Lê Duẩn vào đến Xứ ủy Nam Bộ. Từ đầu năm 1947, nhiều lớp huấn luyện “Đường lối Mặt trận Việt Minh”, “Công nhân vận động” được tổ chức ở các vùng ngoại thành Long An, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Lê Duẩn. Từ ngày 16 đến 20/12/1947, Hội nghị đại biểu Xứ uỷ Nam Bộ bầu đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư Xứ ủy. Từ các nội dung đã nêu có thể suy luận rằng, thời gian đồng chí Lê Duẩn rời Hà Nội là từ sau tháng 6/1946 và đầu năm 1947 thì vào đến Nam Bộ, riêng thời gian đến Bình Thạnh vào khoảng cuối năm 1946.

Đồng chí Lê Duẩn đến Bình Thạnh vào tháng nào năm 1946 (?) Trong các sách lịch sử địa phương thể hiện ba mốc khác nhau gồm: tháng 6, 7 và tháng 10. Về mốc tháng 6 và tháng 7, dĩ nhiên đồng chí Lê Duẩn không thể đến được Bình Thạnh vào tháng 6, bởi vì lúc này chỉ mới khởi hành từ Hà Nội. Tàu chạy từ Hà Nội vào Quảng Trị cũng mất khoảng thời gian nhất định. Đồng chí Lê Duẩn còn dừng lại ở Huế làm việc với đồng chí Nguyễn Chí Thanh – Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, vào Quảng Ngãi dừng chân để huấn luyện các lớp cán bộ, gặp vợ. Và nhất là phải mất khá nhiều thời gian đi bộ theo đường giao liên vừa đi vừa tránh địch, khi vào đến Ninh Thuận, Bình Thuận. Cho nên, mốc thời gian tháng 7, đồng chí Lê Duẩn đến CK7 Ninh Thuận cũng không phù hợp. Trong Lịch sử Bình Thạnh viết, phần hình ảnh minh họa chú thích, “nơi đây là hầm trú ẩn của đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Trung ương Đảng (sau này là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam) trên đường đi công tác dừng chân tại Bình Thạnh trong tháng 10 năm 1947” và “Má Phạm Thị Nhường, người có công chăm sóc, bảo vệ đồng chí Lê Duẩn, khi đồng chí ở tại Bình Thạnh tháng 10 năm 1947”. Từ các dữ liệu trên, đồng chí Lê Duẩn đến Bình Thạnh cuối năm 1946, có thể khoảng tháng 10, ở lại gần 1 tháng, sau đó vào Ô Rô và đến miền Đông Nam Bộ đầu năm sau. Đây là mốc thời gian hợp lý nhất khi đối chiếu với các tư liệu liên quan

3. Tháng 6/1952, đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh và một số cán bộ ra Bắc. Đồng chí Lê Duẩn dừng chân lưu lại, làm việc với tỉnh Bình Thuận vào cuối tháng 6/1952. Sau khi nghe Ban cán sự Cực Nam và Tỉnh ủy Bình Thuận báo cáo, đồng chí đã đánh giá tình hình, có nhiều ý kiến về các mặt công tác, chỉ đạo cho Bình Thuận phương thức tổ chức hoạt động, đẩy mạnh kháng chiến, phù hợp với đặc điểm chiến trường và cục diện chung, nhất là việc xây dựng căn cứ lâu dài. Đặc biệt, đồng chí Lê Duẩn tâm đắc với lối đánh kỳ tập, kết hợp Cảm tử với Xung kích tiếp chiến của lực lượng vũ trang Bình Thuận. Qua đó, gợi ý và kể nhiều đến cách đánh đặc công sáng tạo ở Nam Bộ. Trong đoàn công tác theo đồng chí ra Bắc có 10 cán bộ chiến sĩ đặc công đi theo, vừa làm nhiệm vụ bảo vệ, vừa giúp huấn luyện cho địa phương và báo cáo với Trung ương. Theo nguyện vọng của Ban Chỉ huy Tỉnh đội Bình Thuận, đồng chí Lê Duẩn đã để lại 03 cán bộ đặc công giúp tỉnh Bình Thuận và cực Nam Trung Bộ xây dựng lực lượng đặc công. Lớp huấn luyện trung đội đặc công tỉnh Bình Thuận, được gọi tên là “lớp công binh”([3]) được tổ chức tại Triền, thuộc khu Lê Hồng Phong, có 70 cán bộ, chiến sĩ, do Nguyễn Bính làm trung đội trưởng. Ninh Thuận cử 09 chiến sĩ vào khu Lê hình thành một đại đội tham gia. 03 cán bộ đặc công của Nam bộ gồm Nguyễn Hiếu Liêm – Đại đội trưởng, Trần Thắng Nê và Nguyễn Hữu Đôi([4]) là cán bộ tiểu đội bắt tay ngay vào công tác tổ chức, huấn luyện. Sau khi huấn luyện xong, tuyển chọn được 43 chiến sĩ, thành lập đơn vị đặc công tỉnh Bình Thuận, phiên hiệu B9. Tháng 8/1952, sau khi hoàn thành huấn luyện bộ đội đặc công cho Cực Nam Trung bộ, ba cán bộ tiếp tục lên đường ra Việt Bắc.

Để thể nghiệm cách đánh mới, đêm 18/9/1952, trung đội đặc công do Tỉnh đội phó Nguyễn Minh Châu chỉ huy đánh đồn Ngã Hai, nằm trên ngã ba đường đi Phan Thiết - Sài Gòn và Phan Thiết - Mương Mán, cách thị xã Phan Thiết 07 km về hướng Tây Nam. Trong vòng 20 phút, bộ đội làm chủ đồn Ngã Hai và khu tập trung dân. Kết thúc trận đánh, đã tiêu diệt 60 tên địch, bắt sống hơn 60 tên, thu toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, phá khu tập trung và đưa phần lớn dân làng về xóm cũ. Sau các trận bị lực lượng vũ trang Bình Thuận tấn công trước đây, đối phương đã đề phòng cẩn thận hơn, nhưng lại bị giáng một đòn ở sát nách Phan Thiết bằng cách đánh “rất kỳ lạ” như đối phương thú nhận. Sáng hôm sau, một tên đại tá Pháp từ Sài Gòn đã tức tốc ra Phan Thiết, nghiên cứu cách đánh này để đối phó lực lượng ta. Bộ đội đặc công tỉnh Bình Thuận, chiến thuật đặc công trên chiến trường Bình Thuận, chiến trường Khu VI ra đời có công lao đóng góp của đồng chí Lê Duẩn. 

4. Tháng 5/1976, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn về thăm Đảng bộ và nhân dân Thuận Hải. Tại buổi làm việc với Thường trực Tỉnh ủy, đồng chí Lê Duẩn đã nhận định tình hình và đặt ra hai vấn đề là: nạn đói sẽ xảy ra và bọn Pôn Pốt sẽ tấn công nước ta. Từ đó nhiệm vụ của toàn Đảng, trong đó có tỉnh Thuận Hải là chống đói, phát triển sản xuất, ổn định tình hình và xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu. 

5. Nhằm lưu dấu lại những kỷ niệm sâu sắc đối với những lãnh đạo tiền bối của Đảng đối với quê hương, tại tỉnh Bình Thuận có hai công trình liên quan đến cố Tổng bí thư Lê Duẩn, đó là: Khu lưu niệm cố Tổng bí thư Lê Duẩn (tại Bình Thạnh, Tuy Phong) và Nhà tưởng niệm Chiến thắng Ngã Hai (tại Hàm Mỹ, Hàm Thuận Nam).

Tháng 9/2009, khu lưu niệm cố Tổng Bí thư Lê Duẩn được xây dựng trên khu đất gia đình vợ, chồng ông Huỳnh Tiếng, bà Phạm Thị Nhường, diện tích 789 m2, kinh phí đầu tư hơn 1 tỷ 100 triệu đồng. Khu lưu niệm được UBND huyện Tuy Phong giao cho UBND xã Bình Thạnh quản lý, khai thác. Hàng năm, nhiều đoàn khách đã đến viếng, tham quan, tìm hiểu thêm về cuộc đời, thân thế, sự nghiệp cách mạng của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, nhất là khoảng thời gian lưu lại nơi đây.

Tượng đài chiến thắng Ngã Hai, được xây dựng trước năm 1996, nằm trong khuôn viên đồn Ngã Hai của Pháp năm 1952, thể hiện các tư thế chiến đấu của bộ đội đặc công tỉnh Bình Thuận trong trận đánh. Năm 2019, Đảng bộ xã Hàm Mỹ, nâng cấp, chỉnh trang tượng đài trở thành “Nhà tưởng niệm Ngã Hai”. Đó là công trình hết sức ý nghĩa, thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, tuyên truyền giáo dục lịch sử địa phương, chào mừng Đại hội Đảng bộ xã Hàm Mỹ nhiệm kỳ 2020-2025.

 


([1]) Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng và nhà nước (2007), Tiểu sử Lê Duẩn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.38

([2]) Đảng bộ xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong (1996), Bình Thạnh truyền thống cách mạng và văn hóa, Xí nghiệp In Bình Thuận, tr.52

([3]) Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Thuận (1997), Lịch sử Đặc công tỉnh Bình Thuận (1952-1975), Xí nghiệp In Bình Thuận, tr.45

([4]) Như (3)


Các tin khác