Đặc biệt, với những cống hiến xuất sắc, sáng tạo, trong thời kỳ đổi mới, đồng chí Võ Văn Kiệt đã góp phần quan trọng đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng, ổn định và vững bước trên con đường hội nhập, phát triển.
1. Người cộng sản tiêu biểu cho tinh thần không ngừng rèn luyện, học hỏi, năng động và sáng tạo
Ngay từ nhỏ, Võ Văn Kiệt đã bộc lộ tư chất thông minh, hiếu học, nhưng do hoàn cảnh gia đình nghèo túng, Đồng chí không có điều kiện theo học tại các trường lớp. Tuy nhiên, với trí tuệ thông minh, cùng với nghị lực phi thường, Đồng chí không ngừng trau dồi kiến thức và lý luận cách mạng. Có thể nói, đồng chí Võ Văn Kiệt là tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học, cầu tiến, đặc biệt là học từ thực tiễn cách mạng để trưởng thành cả về nhận thức lý luận và bản lĩnh cách mạng.
Ngay cả những năm tháng kháng chiến ác liệt, mỗi khi rảnh rỗi, Đồng chí đều tranh thủ đọc sách, báo, tài liệu, ghi chép, học hỏi kinh nghiệm từ các đồng chí lãnh đạo, từ những trí thức yêu nước và cả cấp dưới của mình. Sau khi đất nước thống nhất, dù giữ chức vụ cao, rất bận rộn với công việc, nhưng Đồng chí vẫn thường xuyên nghiên cứu, học tập để nâng tầm hiểu biết. Theo Đồng chí, cần tôn trọng những người có bằng cấp, tôn trọng và lắng nghe trí thức, nhưng Đồng chí cũng cho rằng việc học không vì bằng cấp mà học là để đem những kiến thức mới vận dụng vào thực tiễn cuộc sống, nhất là để phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Cách mạng là sáng tạo, sự nghiệp cách mạng đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải có khả năng tổng kết thực tiễn, phát hiện cái mới và nhân rộng cái mới. Tinh thần ham học, ham đọc của Đồng chí gần gũi một cách tự nhiên với phẩm chất năng động và sáng tạo, nhạy bén với cái mới, cái tiến bộ.
Năm 1993, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thành lập Tổ chuyên gia tư vấn về cải cách kinh tế và cải cách hành chính để tham khảo ý kiến khi hoạch định những chính sách lớn. Bằng năng lực trí tuệ sắc sảo và trực giác mẫn tiệp của mình, Đồng chí đã nắm bắt cái thần, cốt lõi của những vấn đề phức tạp, trên cơ sở đó, đã đưa ra những quyết định táo bạo và chính xác.
Là nhà lãnh đạo, nhà hoạt động thực tiễn trong Nhân dân, chú ý nghiên cứu thực tiễn đất nước, sâu sát cơ sở; có năng lực tổng kết thực tiễn, phát hiện cái mới, dám quyết định và dám chịu trách nhiệm, đồng chí Võ Văn Kiệt đã đóng góp cho Đảng nhiều chủ trương, chính sách sáng tạo, góp phần đưa đất nước vượt qua thời điểm gay cấn, khó khăn, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện đời sống Nhân dân, tăng cường xây dựng hệ thống chính trị, giữ vững quốc phòng - an ninh, không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
2. Tấm gương cộng sản kiên trung, suốt đời vì nước, vì dân, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đồng chí Võ Văn Kiệt là một người cộng sản luôn đặt lợi ích của Nhân dân, của Tổ quốc lên trên hết, trước hết. Suy nghĩ và việc làm của Đồng chí luôn thể hiện sự trăn trở của một công dân, của một nhà lãnh đạo, người đứng đầu Chính phủ đau đáu vì tiền đồ phát triển của đất nước. Đồng chí không say sưa với những thắng lợi, mà luôn tìm tòi theo cách nghĩ khám phá, đột phá, sáng tạo. Mỗi khi nhắc tới cuộc đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ, khó khăn vì độc lập, tự do của Tổ quốc, Đồng chí luôn trăn trở Đảng phải làm gì cho dân để đáp ứng lại sự hy sinh to lớn và vô giá đó.
Đồng chí luôn day dứt về nguy cơ tụt hậu của đất nước, về sự tăng trưởng bền vững của nước nhà, làm sao phát huy được tiềm năng sẵn có trong Nhân dân để tận dụng cơ hội, bứt phá đưa đất nước phát triển nhanh hơn. Với tầm nhìn xa, tư tưởng nhân văn, đoàn kết, hòa hợp, chủ động khép lại quá khứ chiến tranh và hướng tới tương lai, đồng chí Võ Văn Kiệt đã góp phần tạo sự ổn định và phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Tầm nhìn, cách suy nghĩ và hành động của Thủ tướng Võ Văn Kiệt là tầm nhìn vượt thời đại. Hơn nửa thời gian cuộc đời hoạt động cách mạng, kinh qua hai cuộc chiến tranh, nhưng đồng chí Võ Văn Kiệt đã sớm nhìn thấy xu thế vận động của thế giới trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đồng chí thường nói đổi mới là sáng tạo, là biết khai thác, phát huy thế mạnh của đất nước, dân tộc, lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam, vượt qua những trở lực về tư duy cũ kỹ, lạc hậu và phong cách lãnh đạo quan liêu, đem lại chất lượng cao cho công cuộc đổi mới và chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ tấm lòng yêu nước, trọng dân, thương dân, lòng tự hào dân tộc sâu sắc, đồng chí Võ Văn Kiệt chủ động đến với Nhân dân để hiểu dân, học dân, hỏi dân, bàn bạc với dân và tìm ra cách làm có hiệu quả nhất. Đồng chí không nói nhiều, viết nhiều về tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Đồng chí tỏ rõ sự thấm nhuần về tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, biểu hiện rõ nhất là không giáo điều, rập khuôn, máy móc; miệng nói tay làm, nói ít làm nhiều, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo. Đồng chí Võ Văn Kiệt đã làm đúng tinh thần lời dạy của Bác Hồ, người cán bộ khi nhận nhiệm vụ do Nhân dân ủy thác thì phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận.
Đồng chí Võ Văn Kiệt luôn tuyệt đối trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, trung thành và kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo Đồng chí, nội hàm của mọi khái niệm lý luận không đứng im, bất biến mà đều vận động và được bổ sung bằng thực tiễn phát triển của lịch sử. Qua đó có thể thấy tư duy chính trị của đồng chí Võ Văn Kiệt là toàn diện, sâu sắc, nhạy bén và có tầm chiến lược. Tâm nguyện của đồng chí Võ Văn Kiệt là: một dân tộc đã trải qua bao gian khổ, hy sinh, mất mát để giành lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, dân tộc ấy phải được sống hạnh phúc trong độc lập và tự do, được hưởng "công bằng, dân chủ, văn minh" như mọi dân tộc tiên tiến trên thế giới. Đó là tấm lòng yêu nước, thương dân, chủ nghĩa nhân văn cao cả và sâu sắc của Đồng chí, một phẩm chất mà Đồng chí đã suốt đời rèn luyện, noi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh - người thầy vĩ đại và tôn kính của mình. Ðồng chí là hình ảnh cao đẹp về một nhà lãnh đạo đã giành được chiến thắng trước những thử thách khốc liệt, đầy cám dỗ của kinh tế thị trường, để mãi mãi là một người cộng sản chân chính trong trái tim của Nhân dân.
3. Những công trình mang đậm “dấu ấn” của Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Đồng chí Võ Văn Kiệt giữ chức vụ Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ trong những năm tháng đất nước mới bắt đầu công cuộc đổi mới, công việc đang rất bề bộn: lạm phát tăng nhanh; khủng hoảng kinh tế - xã hội đang rất nghiêm trọng.
Đáng chú ý hơn nữa là thời kỳấy, tư duy kinh tếđang trong quá trình chuyển biến, tư duy đổi mới chưa thực sựđược thông suốt và tư duy kế hoạch hóa tập trung quan liêu vẫn còn dai dẳng. Có thấy hết thực trạng khá phức tạp của tình hình, mới thấy rõ tầm nhìn và tính cách quyết đoán của Đồng chí Võ Văn Kiệt.
Ngay trong những năm khó khăn ấy, dưới sự chỉđạo trực tiếp hoặc có sự tham gia của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nhiều chính sách mang tính đột pháđãđược ban hành. Đó là việc xóa bỏ hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh đối với xí nghiệp quốc doanh, trao quyền tự chủ kinh doanh cho xí nghiệp quốc doanh, thực hiện “thương mại hóa” tư liệu sản xuất, cho phép hàng loạt doanh nghiệp địa phương và xí nghiệp quốc doanh lớn trực tiếp xuất nhập khẩu; từ năm 1989 có chủ trương tự do hóa giá cả, trong nền kinh tế chấm dứt tình trạng hai giá, chỉ còn duy nhất một hệ thống giá thị trường; tổ chức lại hệ thống ngân hàng…
Cũng trong thời gian đó, Nhà nước đã quyết định xóa bỏ bao cấp lương thực, thực phẩm cho hàng triệu công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang và dân cưđô thị. Đối với nông dân, xóa bỏ chếđộ thu mua theo nghĩa vụáp đặt, thay bằng mua - bán theo hợp đồng với giá thỏa thuận đi đôi với bãi bỏ chếđộ “ngăn sông, cấm chợ”, xóa các trạm kiểm soát dọc đường, thực hiện tự do lưu thông hàng hóa nông sản trong cả nước. Đến những năm 1989 - 1990, tình trạng rối loạn về giá cả, rối loạn trong quá trình phân phối, lưu thông hàng hóa không còn nữa; tình trạng lạm phát nhanh được chặn đứng, nền kinh tếđi dần vào thếổn định.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã gắn liền với bao công trình có ý nghĩa then chốt, mang đậm “Dấu ấn Võ Văn Kiệt” từ chủ trương có ý nghĩa quyết đoán, đột pháđến sự năng động, quyết liệt trong điều hành thực hiện. Đó là chương trình khai thác Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, dự án thoát lũ đồng bằng Sông Cửu Long, chuyển từ vùng châu thổ nhiễm mặn nặng nề, năng suất rất thấp, mỗi năm chỉ cấy được một vụ, sang vùng sản xuất lúa lớn nhất và có năng suất cao của vùng; xây dựng đường dây tải điện 500KV Bắc - Nam góp phần điều hòa lượng điện trong cả nước; các công trình giao thông có quy mô lớn như: xa lộ Bắc Thăng Long- Nội Bài mở rộng cửa ngõ Thủđô Hà Nội, cầu Mỹ Thuận, nâng cấp QL1…
Với đồng bằng Sông Cửu Long, Thủ tướng Võ Văn Kiệt luôn dành sự quan tâm đặc biệt và chỉ đạo sát sao. Đồng chí cho rằng đây là một vùng đất giàu tiềm năng, có ý nghĩa to lớn trong quá trình đất nước ta đổi mới, mở cửa và hội nhập với kinh tế thế giới. Đồng chí đã trăn trở, suy nghĩ, nhiều lần “lội đồng”, tìm hiểu thực tế, hỏi han kinh nghiệm làm ăn của bà con nông dân và tham khảo ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý tâm huyết. Trên cơ sở khoa học và tổng kết thực tiễn, đồng chí đã chỉ ra 3 yếu kém cơ bản của vùng đó là: kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi chậm phát triển, trình độ dân trí thấp. Từ đó, đồng chí chỉ đạo 3 mũi đột phá lớn mang ý nghĩa quyết định để phát huy tiềm năng và lợi thế của vùng có sản lượng hàng hóa nông, thủy sản xuất khẩu lớn nhất nước.
Riêng trong việc xây dựng đường dây tải điện 500KV Bắc - Nam mang tính đột phá rất quan trọng. Trước những ý kiến không đồng tình, trong đó có cảý kiến của một vị giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng, Đồng chíđã rất thận trọng, tìm hiểu cặn kẽ từng vấn đề cụ thể, từ kỹ thuật đến kinh tế, quản lý, quy tụ những nhà khoa học uy tín trong lĩnh vực điện năng cùng bàn luận thấu đáo, đồng thời tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, đề xuất cách làm hiệu quả nhất. Phương pháp tiến hành xây lắp đường điện 500KV cũng theo “cách đánh du kích”: chia việc xây dựng các cột điện thành nhiều đoạn rồi cùng “đồng khởi”, sau đó ráp nối các đoạn với nhau. Kế hoạch 4 năm, nhưng chỉ sau 2 năm thực hiện, đường điện Bắc - Nam đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, đây làđòn bẫy quyết định cho sự phát triển tăng tốc về kinh tế - văn hóa - xã hội của Việt Nam trong thời kỳđổi mới.
Trong những năm không còn giữ trọng trách trong Chính phủ cũng như không còn là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Võ Văn Kiệt vẫn nặng lòng với nhiều vấn đề trọng đại về quốc kế, dân sinh, thường có nhiều ý kiến tâm huyết đóng góp cho Bộ Chính trị và Chính phủ.
Với công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, đồng chí Võ Văn Kiệt đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác. Cuộc đời Đồng chí là tấm gương sáng để đồng bào, cán bộ, chiến sĩ cả nước yêu quý, kính trọng và mãi mãi noi theo.