Ngày 7/11/1917, Cách mạng tháng 10 Nga bùng nổ. Lần đầu tiên trong lịch sử, bằng sức mạnh quần chúng nhân dân, cuộc cách mạng tại nước Nga đã lật đổ chế độ bóc lột của các giai cấp địa chủ quý tộc và tư sản, lập nên chính quyền của người lao động nghèo khổ. Ngay sau khi cách mạng thành công, chính quyền Xô-viết đã ban hành sắc luật xóa bỏ mọi sự phân biệt đẳng cấp, chỉ còn một danh xưng chung đó là những công dân của nước Cộng hòa Xô-viết Nga; thông qua sắc luật ruộng đất, tuyên bố tịch thu không bồi thường tất cả ruộng đất của địa chủ, quý tộc đem chia cho nông dân. Sự thành công của Cách mạng tháng 10 Nga đã có tiếng vang rộng lớn, tác động mạnh mẽ trên toàn thế giới.
Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG 10 NGA
Giá trị và ý nghĩa thời đại của Cách mạng tháng 10 Nga được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Mười đã dạy cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới nhiều bài học hết sức quý báu, bảo đảm cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và của cả loài người...”([1]); “…giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa đến thế”([2]). Nhìn lại dòng chảy lịch sử đã và đang diễn ra, có thể nhận thấy ý nghĩa thời đại của Cách mạng tháng 10 Nga thể hiện ở một số nội dung như sau:
Một là, Cách mạng tháng 10 Nga ảnh hướng mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử thế giới. Sự ra đời của nhà nước Xô Viết sau thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga chứng minh một điều rằng chủ nghĩa tư bản từ năm 1917 không còn là một hệ thống hoàn chỉnh bao trùm cả thế giới. Thắng lợi Cách mạng tháng 10 Nga mở đầu thụt lùi của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Cách mạng tháng 10 Nga đưa chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực trong cuộc sống nhân loại. Qua quá trình phát triển, chủ nghĩa xã hội từ một quốc gia trở thành một hệ thống trên thế giới; trở thành động lực, ngọn cờ dẫn đường và cổ vũ phong trào cách mạng của các nước thuộc địa trên thế giới, đứng lên giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột giành độc lập cho dân tộc, trong đó có Việt Nam.
Mặc dù tiến trình lịch sử có những bước thăng trầm, nhưng sự ra đời, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội đã thể hiện rõ một điều là, nhân loại đang quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu và đích đến tốt đẹp ở tương lai của nhân loại. Đây là xu thế lịch sử vận động khách quan mà không thế lực nào có thể thay đổi, xóa bỏ được. Cho đến hôm nay, vẫn hơn 1 tỷ người trên thế giới đã và đang đi theo con đường mà Cách mạng tháng 10 Nga đã khai phá với những thành tựu đạt được. Điều đó càng khẳng định thêm giá trị thời đại của Cách mạng tháng 10 Nga. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội đã chứng minh Cách mạng tháng 10 Nga đã ảnh hưởng mạnh mẽ và to lớn đến tiến trình lịch sử và cục diện thế giới.
Hai là, Cách mạng tháng 10 Nga mở ra thời kỳ lịch sử mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, Phi và Mỹ La tinh. Giá trị của Cách mạng tháng 10 Nga đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới không chỉ là sự cổ vũ, củng cố lòng tin, làm chỗ dựa mà còn chỉ ra phương hướng phát triển mới. Phong trào giải phóng dân tộc quan hệ gắn bó với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân các nước trong trận tuyến chống kẻ thù chung chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Đó là phong trào giải phóng dân tộc đi theo tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng của Cách mạng tháng 10 Nga; là con đường phát triển “phi tư bản chủ nghĩa”, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là sự kết hợp giữa cách mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc. Cách mạng tháng 10 Nga chỉ cho các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới nhìn thấy con đường giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội; thức tỉnh hàng trăm triệu nhân dân lao động các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng dất nước họ. Sự ra đời của hơn 100 quốc gia độc lập ở châu Á, Phi và Mỹ Latinh là dấu ấn lịch sử chói lọi trong thế kỷ XX dưới ánh sáng của Cách mạng tháng 10 Nga.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ, tiến công vào thành trì của chủ nghĩa thực dân. Nhiều quốc gia đã xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa sau khi giành được độc lập dân tộc (Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Triều Tiên, Cu Ba…). Đây là phản ánh chân thực sự ảnh hưởng của Cách mạng Tháng 10 Nga, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống trên thế giới.
Ba là, Cách mạng tháng 10 Nga cổ vũ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Cách mạng tháng 10 Nga không những là ngọn cờ dẫn đường phong trào cách mạng của các nước thuộc địa trên thế giới, đứng lên giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bốc lột giành độc lập, mà còn cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân trên thế giới, nhất là ở các nước tư bản, chỉ cho họ con đường đi đến thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chứng minh một cách khoa học về sứ mệnh lịch sử và chỉ ra con đường, biện pháp để giai cấp công nhân trên thế giới thực hiện sứ mệnh lịch sử đó. Cách mạng tháng 10 Nga đã hiện thực hóa sứ mệnh lịch sử, đã tác động trực tiếp đến sự phát triển của phong trào công nhân trên thế giới.
Sau Cách mạng tháng 10 Nga, phong trào công nhân thế giới có sự cổ vũ, ủng hộ vững chắc của hệ thống xã hội chủ nghĩa, cùng với lực lượng dân chủ hòa bình tiến công vào thành trì của tư bản chủ nghĩa, vào các thế lực đế quốc, phản động. Giai cấp công nhân thế giới ý thức rõ về vị thế, vai trò lịch sử của mình trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay. Sự phát triển lớn mạnh của phong trào công nhân ở các nước tư bản châu Âu, Bắc Mỹ đã buộc giai cấp tư sản các nước này phải có những điều chỉnh nhất định. Giai cấp công nhân đã giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, thực sự là giai cấp tiên phong trong đấu tranh thực hiện mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra chân lý cho cách mạng Việt Nam từ “Luận cương Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”. Ngay khi mới bắt gặp chủ nghĩa Lênin, Người đã sớm ý thức được cách mạng Việt Nam phải tổ chức một Đảng cách mệnh chân chính, vững mạnh: “Đảng có vững, cách mệnh mới thành công”([3]). Người đặt vấn đề: “cách mạng trước hết phải có cái gì?” và khẳng định: cách mạng, “trước hết phải có đảng cách mạng, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức vô sản giai cấp ở mọi nơi”([4]). Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 03/02/1930. Ngay từ ngày thành lập Đảng, thực hiện ý tưởng nêu ra trong cuốn “Đường cách mệnh”, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ trong các văn kiện thành lập Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp”, “là đội quân tiên phong của đạo quân vô sản”, “Đảng của giai cấp vô sản”. Các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng đều tuân theo học thuyết của Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, biểu hiện qua những quy định trong Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Nhân kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng 10 Nga (07/11/1917- 07/11/1967), Chủ tịch Hồ Chí Minh có bài viết “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho dân tộc” gửi báo Sự Thật (Liên Xô). Trong bài viết này, Người khẳng định “cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”([5]). Đó là kinh nghiệm đầu tiên và quan trọng của cách mạng Việt Nam qua việc vận dụng kinh nghiệm Cách mạng Tháng 10: xây dựng Đảng và thực hiện sự lãnh đạo của Đảng.
Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua nhiều thử thách, trở thành một đảng Mác –Lênin kiên cường, trưởng thành về chính trị, vững vàng trước những biến cố của lịch sử ở trong nước và trên thế giới. Lịch sử Đảng cho thấy, trong bất kỳ tình huống nào, Đảng ta cũng rất chú trọng công tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, trong tình hình mới, công tác xây dựng Đảng vẫn còn nhiều điểm yếu. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tiến hành nhiều năm, việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, mặc dù đã đạt được một số kết quả to lớn, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong Đảng, trong xã hội về ý thức tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên, song nhìn chung hiệu quả mang lại chưa cao. Nổi lên là những yếu kém, khuyết điểm trong công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống. Một số tổ chức đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn; vi phạm dân chủ, lỏng lẻo kỷ luật, kỷ cương, mất đoàn kết nội bộ. Công tác tư tưởng lý luận còn yếu kém bất cập; công tác tổ chức cán bộ còn một số biểu hiện trì trệ; trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn lúng túng…
Để khắc phục những khuyết điểm, Đảng ta đã và đang đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng trên cơ sở tiếp tục kiên định và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của Lênin, tập trung vào những nội dung cơ bản sau:
Một là, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh không khoan nhượng của Lênin và những người cộng sản của Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga chống lại những kẻ cơ hội, phản động để khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, bảo vệ mục tiêu lý tưởng của Đảng, bảo vệ những nguyên tắc xây dựng Đảng vô sản kiểu mới đã diễn ra quyết liệt cách đây gần một thế kỷ. Cuộc đấu tranh đó đã để lại cho những người cộng sản thế giới nói chung, những người cộng sản Việt Nam nói riêng những kinh nghiệm về bản lĩnh chính trị, sự kiên định mục tiêu lý tưởng, về tính chiến đấu để bảo vệ nền tảng tư tưởng và các nguyên tắc của đảng, về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng của người đảng viên cộng sản đối với Đảng, đối với cách mạng, với đồng chí và nhân dân. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta khẳng định nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, coi trọng việc rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch lành mạnh, chống chủ nghĩa cá nhân. Thực tế còn không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống dẫn đến suy thoái về chính trị, ảnh hưởng không nhỏ đến uy tính, sức chiến đấu của Đảng và kết quả thực hiện đường lối chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Nếu không được ngăn chặn và loại trừ thì ở từng nơi, tình trạng đó sẽ làm mờ nhạt uy tín, bản chất của Đảng, xâm phạm quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, làm giảm sức mạnh của Đảng. Vì thế, việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là vấn đề cấp thiết. Mỗi cán bộ, đảng viên tích cực rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch lành mạnh, dù ở cương vị công tác nào cũng không được bằng lòng với chính mình về trình độ hiểu biết, đạo đức và phong cách công tác. Ở mọi lúc, mọi nơi nhất là trước những cám dỗ về vật chất, kinh tế, phải tự đấu tranh với chính mình, thực hiện đạo đức “cần kiệm, liêm chính” theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ba là, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương luân chuyển cán bộ. Việc tiếp tục đổi mới công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trọng nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân. Để có đội ngũ cán bộ đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ cách mạng mới, Đảng ta đã và đang xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trọng dụng những người có đức, có tài. Đẩy mạnh xây dựng quy hoạch cán bộ, khắc phục tình trạng quy hoạch hình thức, coi trọng quy hoạch tạo nguồn cán bộ, để tập thể lựa chọn đưa vào cương vị lãnh đạo, quản lý. Luân chuyển cán bộ là chủ trương đúng đắn được thể hiện trong chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Thời gian qua, các cấp đã thực hiện tốt chủ trương này đem lại chuyển biến tích cực trong công tác cán bộ, làm cho cán bộ được đào tạo, tôi luyện trong thực tiễn, gần dân hơn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực tổ chức thực tiễn tốt hơn. Bên cạnh thuận lợi đó, việc luân chuyển cán bộ vẫn còn gặp không ít khó khăn trước những biểu hiện của tư tưởng cục bộ, bè phái, chủ nghĩa cá nhân. Để xoá bỏ điều này, Đảng ta đã triển khai làm tốt công tác tư tưởng trong nội bộ, trong đội ngũ cán bộ luân chuyển. Cấp ủy quyết tâm, cán bộ thuộc diện luân chuyển sẵn sàng nhận nhiệm vụ trở thành nhân tố quyết định sự thành công chủ trương này.
Bốn là, xây dựng các tổ chức cơ sở trong sạch vững mạnh. Các chi, đảng bộ cơ sở là “hạt nhân chính trị” lãnh đạo chính quyền, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân cơ sở để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Để đạt được kết quả này, Đảng ta đã phát huy tính chủ động, sáng tạo của từng tổ chức cơ sở đảng và cấp trên luôn quan tâm, chỉ đạo cơ sở, nhất là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng. Đảng ta luôn coi trọng kiện toàn, nâng cao chất lượng cấp ủy cơ sở để xứng đáng là “hạt nhân lãnh đạo”, trung tâm đoàn kết ở cơ sở. Luôn tập trung nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng: duy trì sinh hoạt thành nề nếp, có nội dung thiết thực, hình thức đa dạng; đề cao trách nhiệm tham gia sinh hoạt đảng của cấp uỷ viên và đảng viên; tổ chức sinh hoạt trang nghiêm… Luôn coi trọng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, tích cực phát triển đảng để bổ sung lực lượng và tố chất mới cho Đảng.
Thứ năm, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, tổ chức, động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Quan hệ chặt chẽ với nhân dân tạo thành sức mạnh to lớn để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin là truyền thống của Đảng ta. Nhờ đó, Đảng ta có sức mạnh đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Các tổ chức đảng đã và đang đổi mới công tác vận động quần chúng, xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân theo hướng đa dạng hóa về hình thức tổ chức, phong phú về nội dung và phương thức hoạt động. Từ đó đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, tập hợp đông đảo nhân dân vào các tổ chức để giáo dục, đưa nhân dân vào phong trào thi đua yêu nước. Qua đó, làm xuất hiện những quần chúng ưu tú có thể đứng vào hàng ngũ của Đảng. Đồng thời, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng, trước hết ở chi bộ, đảng bộ cơ sở.
*
Trên con đường cách mạng gian khổ, lâu dài và cũng hết sức vẻ vang, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động, luôn giữ vững những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng, hoạch định đường lối cách mạng. Đảng ta rất chú trọng việc vận dụng và phát triển những quan điểm của Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới. Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam tiến hành thực hiện công cuộc đổi mới trong điều kiện trong nước và quốc tế có những thời cơ, thách thức lớn. Các thế lực thù địch đang tìm cách đánh phá xuyên tạc, bôi nhọ, kích động, chia rẽ nội bộ đảng, phá rã tổ chức đảng, tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của đảng cộng sản, phủ định chủ nghĩa Mác- Lênin. Đảng ta đã nhận thức việc giữ vững và tăng cường nâng cao sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ quan trọng sống còn của Đảng, của dân tộc. Qua hơn 30 năm đổi mới, nhất là từ Đại hội VIII đến nay, Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức; khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và toàn Đảng tập trung trí tuệ, sức lực thực hiện nhiệm vụ đó./.
([1]) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.391.
([2]) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr.387.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tập 2, trang 267 – 268.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1980, tập 1, trang 115.
([5]) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr.308