Ngày 21/9/1945, quân Anh chiếm đóng trụ sở cảnh sát quận 3, thả tù binh Pháp và trang bị vũ khí cho chúng, ra lệnh thiết quân luật, cấm nhân dân ta không được biểu tình, hội họp, đem theo vũ khí và đi lại ban đêm. Tối ngày 22/9/1945, sau khi chiếm Đài vô tuyến điện, quân Anh làm ngơ để quân Pháp đánh úp Sài Gòn. Đến ngày 23/9/1945, được quân Anh giúp đỡ và sự yểm trợ của tàn quân Nhật, 6.000 quân Pháp dựa vào hơn 1 vạn quân Anh đã trắng trợn gây hấn ở Thành phố Sài Gòn, chúng đã đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mưu toan chiếm lại miền Nam nước ta trong vòng một tháng, làm bàn đạp chiếm lại cả Đông Dương.
Như vậy là chỉ 21 ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 02/9/1945, khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dân Nam Bộ lại phải tiếp tục cầm súng đứng lên chiến đấu.
Ngay trong sáng 23/9/1945, Xứ ủy Nam Bộ và Ủy ban nhân dân Nam Bộ đã triệu tập cuộc họp tại Nhà số 629 đường Cây Mai (nay là đường Nguyễn Trãi, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh). Hội nghị thông qua “Lời kêu gọi của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ”; trong đó xác định: “Từ giờ phút này, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là tiêu diệt giặc Pháp và tay sai của chúng”, và ra tuyên bố: “Cuộc kháng chiến bắt đầu!”. Hội nghị quyết định: triệt để tổng đình công, không hợp tác với giặc Pháp, đánh du kích, phá hoại đường giao thông tiếp tế, bao vây, tiêu hao, tiêu diệt địch.
Chiều ngày 23/9/1945, Sài Gòn triệt để tổng đình công, không hợp tác. Công sở, xí nghiệp, cửa hàng đều đóng cửa, chợ không họp, xe ngừng chạy. Khắp phố phường, vật chướng ngại mọc lên. Các đơn vị xung phong, Công đoàn và Thanh niên tiền phong lập tức chiếm lĩnh vị trí chiến đấu đánh trả quân địch.
Hưởng ứng Lời kêu gọi của Ủy ban Kháng chiến Nam bộ, đông đảo quần chúng nhân dân Sài Gòn hăng hái tham gia bảo vệ độc lập với tinh thần và khí thế sục sôi. Ngay trong những ngày đầu, nhân dân Sài Gòn đã lập được nhiều chiến công xuất sắc, anh dũng đánh trả quyết liệt, kìm giữ chân địch để các địa phương có thời gian chuẩn bị lực lượng kháng chiến trường kỳ, thực hiện lời thề “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Tiêu biểu cho tinh thần “độc lập hay là chết” là tiểu đội bảo vệ Cột cờ Thủ Ngữ. Sáng 23/9/1945, khi một đại đội quân Anh định hạ lá cờ đỏ sao vàng xuống để kéo lá cờ tam tài lên, vì danh dự lá cờ Tổ quốc, chỉ với vũ khí thô sơ nhưng các chiến sĩ cảm tử của ta kiên quyết ngăn cản dù phải hy sinh đến người cuối cùng. Cảm phục trước khí tiết đó, viên chỉ huy người Anh đã cho đại đội xếp hàng, bồng súng chào hương hồn những người anh hùng của đối phương đã ngã xuống dưới chân cột cờ. Trận chiến đấu bảo vệ lá cờ Tổ quốc - biểu tượng của nền độc lập đã cổ vũ mạnh mẽ cho lực lượng vũ trang ta dũng cảm tổ chức nhiều trận đánh ác liệt.
Ngày 26/9/1945, qua Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Nam Bộ, khẳng định quyết tâm kháng chiến của Trung ương Đảng, Chính phủ và nhân dân cả nước ta: “Tôi chắc và đồng bào cả nước đều chắc vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ… Tôi chắc và đồng bào Nam Bộ cũng chắc rằng Chính phủ và toàn quốc đồng bào sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hi sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà”.
Tại Hà Nội, Đảng và Chính phủ vừa phải lo củng cố chính quyền cách mạng và ổn định đời sống của nhân dân, vừa phải lo đối phó với quân Tưởng và bè lũ tay sai nhưng Bác Hồ và Ban Thường vụ Trung ương Đảng vẫn theo dõi chặt chẽ diễn biến phức tạp ở miền Nam. Bác căn dặn nhân dân Nam Bộ bình tĩnh, tranh thủ thời gian để xây dựng lực lượng, củng cố giữ vững chính quyền cách mạng; cử một phái đoàn của Trung ương vào Nam Bộ để cùng Xứ ủy và Ủy ban hành chính Nam Bộ chỉ đạo cuộc kháng chiến.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược của quân và dân ta trong những ngày đầu ở Nam bộ có ý nghĩa rất to lớn, làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp; đồng thời, tỏ rõ tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường và tinh thần chiến đấu anh dũng để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền của dân tộc ta; thực hiện chủ trương của Đảng cần phải tập trung đánh mạnh quân Pháp ở Nam bộ, quyết tâm giành thắng lợi ở chiến trường Nam Bộ để tạo điều kiện cho việc đấu tranh với quân Tưởng ở ngoài miền Bắc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, nhân dân Nam Bộ sục sôi căm thù, đã nhất tề đứng lên, xông pha mặt trận quyết chiến với quân xâm lược, mở ra một trang sử oanh liệt mới: Nam Bộ kháng chiến. Người dân Sài Gòn và Nam bộ hừng hực khí thế của “Mùa thu rồi, ngày 23, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến…”, nhất tề đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Nhân dân Sài Gòn đã thực hiện chiến thuật “trong đánh, ngoài vây”, hình thành 4 mặt trận tiền tuyến ở ngoại thành. Các ụ chiến đấu mọc lên ở khắp phố phường, các đội tự vệ cùng nhân dân canh gác các ngả đường. Các cuộc chống trả quyết liệt ở cột cờ Thủ Ngữ, khu vực Tân Định, cầu Thị Nghè, cầu Muối, cầu Chữ Y… Nhân dân Sài Gòn triệt để thực hiện tổng đình công, nhà máy đèn, nhà máy nước bị phá hủy, chợ búa đóng cửa, xe điện ngưng chạy…Vòng vây quân sự cùng với vòng vây kinh tế làm cho kẻ địch bất ngờ.
Theo lời kêu gọi của Bác Hồ “Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ”, quân và dân Nam Bộ đã thể hiện tinh thần chiến đấu và hy sinh anh dũng. Từ gậy tầm vông, giáo mác, từ những vũ khí thô sơ, ít ỏi, quân và dân Nam Bộ đã kiên cường chống lại sức mạnh quân sự hùng hậu của kẻ thù. Ngay trong những ngày đầu tái xâm lược nước ta, quân Pháp đã liên tục bị tấn công và bao vây chặt trong thành phố. Chúng đã bị lâm vào tình trạng khốn đốn: không điện, không nước, thiếu vũ khí, thiếu lương thực, thực phẩm, thiếu quân và luôn bị quân dân ta tập kích, tiêu hao.
Những tin chiến thắng của quân và dân Sài Gòn làm nức lòng đồng bào cả nước. Thanh niên các tỉnh phía Bắc và Trung bộ náo nức tham gia phong trào “Nam tiến” với khí thế hăng say chưa từng có. Chính vì lẽ đó, tháng 2/1946, trong đợt tôn vinh chiến công vang dội, Bác Hồ đã tặng quân và dân Nam Bộ 4 chữ “Thành đồng Tổ quốc”. Và ngày Nam Bộ kháng chiến 23/9/1945 đã trở thành một trong những dấu ấn không thể phai mờ trong truyền thống lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Trong điều kiện miền Bắc gặp rất nhiều khó khăn, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn phát động nhiều phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Hàng vạn thanh niên các tỉnh phía Bắc và Trung Bộ đã tình nguyện lên đường vào Nam đánh giặc. Nhân dân đóng góp tiền bạc, quần áo, thuốc men ủng hộ đồng bào miền Nam. Chi đội Giải phóng quân Nam tiến đầu tiên rời Hà Nội đêm 26/9/1945, mở đầu phong trào cả nước ra trận, phản ánh ý chí “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”.
Từ gậy tầm vông, mã tấu cùng các loại vũ khí thô sơ, nhân dân miền Nam đã đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất của quân dân miền Nam thật xứng đáng với danh hiệu cao quý “Thành đồng Tổ quốc”. Quân dân Nam Bộ đã đi đầu trong sự nghiệp kháng chiến, làm tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, ngăn chặn một bước sự xâm lược của thực dân Pháp, đánh đòn đầu tiên vào âm mưu và hành động đánh nhanh thắng nhanh của chúng ở miền Nam, góp phần ngăn cản bước tiến của quân Pháp tạo điều kiện cho nhân dân miền Bắc chuẩn bị cho công cuộc đấu tranh giữ vững chính quyền nhân dân, chủ quyền dân tộc. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ đã tạo điều kiện để toàn Đảng toàn dân ta chuẩn bị và tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài trong cả nước.
Ý chí chiến đấu quật cường của đồng bào Nam Bộ trong ngày 23/9/1945 đã để lại những bài học vô cùng quý giá. Đó là bài học về sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Trước sức mạnh của kẻ thù, Xứ ủy Nam Bộ đã thấy được sức mạnh vô cùng to lớn từ nhân dân. Nhân dân Nam Bộ quyết không khuất phục, đã nhất tề đứng dậy chiến đấu. Xứ ủy Nam Bộ khẳng định quyết tâm kháng chiến là quyết định hợp lòng dân, đã phát huy sức mạnh to lớn từ nhân dân. Đường lối đúng đắn của Đảng, mà trực tiếp là Xứ ủy Nam Bộ đã tập hợp và phát huy được tất cả các lực lượng, đồng thuận hướng đến ngọn cờ độc lập dân tộc, chống lại kẻ thù xâm lược, giải phóng quê hương.
Đó còn là bài học về sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, của Bác Hồ đã được phát huy cao độ. Trong những tháng năm đó, cùng với đồng bào Nam Bộ kháng chiến, có hàng vạn những người con ưu tú của miền Bắc đã lên đường “Nam tiến” giết giặc. Quân và dân Nam Bộ đã sống, chiến đấu xứng đáng với danh hiệu mà Bác Hồ phong tặng suốt 30 năm chiến đấu kéo dài, cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (ngày 30/4/1975). Và đó cũng là một biểu tượng kiên cường cho mảnh đất miền Nam đi trước, về sau thân yêu của Tổ quốc.
72 năm đã qua kể từ ngày Nam Bộ kháng chiến, trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam yêu nước vẫn luôn tự hào về truyền thống chiến đấu kiên cường, bất khuất của thế hệ cha anh, quyết bảo vệ đến cùng nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Ngày nay, ý chí ấy, quyết tâm ấy vẫn là cội nguồn sức mạnh để nhân dân ta chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, xây dựng đất nước cường thịnh, phồn vinh, văn minh và hạnh phúc. Tinh thần chiến đấu quật cường, và truyền thống đoàn kết của Ngày Nam Bộ kháng chiến vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa lịch sử. Ngọn lửa ngày Nam Bộ kháng chiến năm xưa mãi mãi là nguồn động lực to lớn cổ vũ toàn dân tộc đoàn kết, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, quyết tâm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là “xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”./.