ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 80 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG DÂN QUÂN TỰ VỆ VIỆT NAM
(28/3/1935 - 28/3/2015)
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn phải đương đầu với giặc ngoại xâm để bảo vệ đất nước. Trong quá trình dựng nước và giữ nước đó, dân tộc ta đã tạo dựng nên truyền thống quý báu: “Ngụ binh ư nông”, “trăm họ đều là lính”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, “động viên toàn dân, vũ trang toàn dân” để giết giặc cứu nước.
Kế thừa và phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc; vận dụng đúng đắn sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta, từ khi mới ra đời Đảng ta đã đề ra chủ trương về “Vũ trang cho công nông” (Luận cương Chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương). Khi phong trào cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển mạnh mẽ, Đảng ta đã thành lập lực lượng Dân quân tự vệ (DQTV) làm lực lượng nòng cốt trong phong trào chiến tranh nhân dân. Đây là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, là bộ phận của lực lượng vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quan tâm, điều hành của Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp, sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương.
I. Dân quân tự vệ Việt Nam 80 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và trưởng thành
Trong những năm 1930 - 1931, trong cả nước có rất nhiều cuộc bãi công, biểu tình liên tiếp nổ ra ở hầu khắp các địa phương, mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh. Thời kỳ này, Đảng đã xác định lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu; tuy nhiên Đảng ta cũng xác định một số vấn đề cơ bản về khởi nghĩa vũ trang, vũ trang bạo động; coi khởi nghĩa vũ trang là sự nghiệp của đông đảo quần chúng và để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang phải lấy việc xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng làm nền tảng. Do đó, trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (tháng 3/1931). Đảng ta chủ trương khi giành được chính quyền thì thành lập “Quân đội công nông”.
Ngày 28/3/1935 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất họp tại Ma Cao (Trung quốc) Đảng ta đã ra “Nghị quyết về đội tự vệ”. Đây là Nghị quyết đầu tiên của Đảng về tổ chức, chỉ đạo xây dựng, huấn luyện và hoạt động của lực lượng tự vệ. Nghị quyết về Đội tự vệ đã khẳng định “Tự vệ đội càng mạnh thì tức là có điều kiện thuận lợi để sau này tổ chức du kích chiến tranh và vũ trang bạo động”. Đây là một dấu ấn quan trọng mở ra một thời kỳ mới, là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng xuyên suốt qua các giai đoạn cách mạng. Có thể nói Nghị quyết về Đội tự vệ là khởi đầu của tư tưởng vũ trang toàn dân và tư tưởng chiến tranh nhân dân với phong trào toàn dân đánh giặc.
Ngay sau khi có "Nghị quyết về Đội tự vệ" của Đảng, các Đội tự vệ công nông mang tính chất là những tổ chức vũ trang quần chúng ra đời, đây là tiền thân của các Đội Cứu Quốc quân, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân sau này.
Trong những năm 1939 - 1940, phong trào cách mạng của quần chúng đã từ đấu tranh chính trị từng bước tiến lên đấu tranh vũ trang, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự. Một số du kích ra đời, được duy trì và phát triển thành các trung đội Cứu quốc quân. Lực lượng tự vệ được khẩn trương xây dựng ở trên khắp các tỉnh, nhất là ở Bắc Bộ, Trung Bộ.
Thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (1940 - 1945), đi đôi với chủ trương mở rộng và củng cố các đội tự vệ ở khắp các vùng nông thôn, thành thị, Đảng ta đã chủ trương thành lập các đội tự vệ cứu quốc, các tổ, tiểu đội du kích cứu quốc và các đội du kích chính thức. Các đội tự vệ đã trở thành tổ chức vũ trang quần chúng của các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh, được xây dựng ở các căn cứ, địa phương có điều kiện; phối hợp với các đơn vị cứu quốc quân, Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân làm nòng cốt cho quần chúng thực hiện vũ trang khởi nghĩa từng phần, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ, xây dựng và mở rộng các căn cứ địa Việt Bắc, Đông Bắc, Ninh Bình, Thanh Hóa, Ba Tơ, v.v... đến tháng 8/1945 lực lượng DQTV đã phát triển lên tới vài chục nghìn người cùng với giải phóng quân và toàn dân thực hiện thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa.
Ngày 02/9/1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời trong vòng vây của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế. DQTV Việt Nam trở thành lực lượng vũ trang của Nhà nước, một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân, một công cụ chủ yếu của chính quyền ở cơ sở. Từ phong trào quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân, tự vệ cứu quốc mà nòng cốt là tự vệ chiến đấu trong một thời gian ngắn được Mặt trận Việt Minh tổ chức rộng khắp ở các làng xã, đường phố trong cả nước. Lực lượng này đã thực sự là một công cụ chuyên chính chủ yếu bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, bảo vệ thành quả cách mạng.
Ngày 23/9/1945, quân đội Pháp được quân Anh giúp sức nổ súng gây chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ 2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ các địa phương ở miền Nam nhất là Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, lực lượng DQTV đã phối hợp với bộ đội chủ lực anh dũng chiến đấu ngăn chặn địch, diệt ác, trừ gian, phá hoại đường giao thông... Ở miền Bắc, lực lượng DQTV phối hợp với công an nhân dân và Vệ quốc quân tham gia trừng trị bọn phản động nội địa, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) lực lượng DQTV được nhanh chóng phát triển rộng khắp trong cả nước ngày càng lớn mạnh, là lực lượng vũ trang quần chúng do mặt trận chỉ đạo đã từng bước được thống nhất về tổ chức là một bộ phận trong LLVT nhân dân Việt Nam do các xã đội, huyện đội, tỉnh đội chỉ đạo, chỉ huy và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ Đảng các cấp. Đây là bước phát triển mới về chất lượng của lực lượng DQTV. Lực lượng DQTV đã cùng vệ quốc quân và các lực lượng chính trị tạo thành sức mạnh to lớn cho thế và lực của cách mạng.
Đến đầu năm 1947, lực lượng DQTV đã phát triển lên gần 3 triệu người, riêng Thủ đô Hà Nội có 6.000 đội viên. Ở chiến trường Nam Bộ, lực lượng dân quân du kích phát triển trên 27 vạn (nữ có 5,7 vạn); trong đó, du kích chiến đấu là 1,4 vạn. Ở chiến trường Trung Bộ, đến cuối năm 1949 phát triển 28,5 vạn dân quân du kích, 22.000 bạch đầu quân. Ở Bắc Bộ, dân quân du kích phát triển mạnh với hơn 27,9 vạn người với đủ các lứa tuổi, trai, gái. Phòng DQTV (nay là Cục DQTV) và hệ thống cơ quan DQTV từ quân khu đến các địa phương được thành lập để chỉ đạo xây dựng phong trào. Trong điều kiện hết sức khó khăn gian khổ, bằng các loại vũ khí thô sơ tự tạo và vũ khí lấy được của địch, phải đương đầu với quân đội viễn chinh Pháp được trang bị hiện đại, lực lượng DQTV và du kích đã cùng nhân dân xây dựng làng xã chiến đấu, dựa vào hệ thống này kiên cường bám đất, bám dân, tiêu hao lớn quân địch, phá tề, trừ gian; tích cực phối hợp với bộ đội địa phương chống địch càn quét, bao vây, bức hàng, bức rút nhiều đồn bốt địch, giải phóng làng xã, mở rộng các khu căn cứ du kích; thực hiện tích cực kiềm chế, căng kéo lực lượng địch, buộc địch phải phân tán đối phó, tạo điều kiện cho ta bảo vệ vùng tự do và góp phần cùng bộ đội chủ lực thực hiện nhiều chiến dịch lớn, đánh bại các biện pháp chiến lược của địch, giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng DQTV và bộ đội địa phương đã tiêu diệt 23,1 vạn/50 vạn quân địch (chiếm tỷ lệ 46,4% tổng số lực lượng địch bị tiêu diệt) làm tan rã trên 20 vạn tên (chiến tỷ lệ 35%) và kiềm chế, phân tán trên 90% tổng số lực lượng trên toàn chiến trường, khiến bại tướng NaVa phải thú nhận “Quân Pháp đông nhưng chỉ để được 10% lực lượng cơ động chiến lược”. Vì vậy chiến công của lực lượng DQTV và bộ đội địa phương đã góp phần cùng bộ đội chủ lực giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ “Lững lẫy 5 Châu, chấn động địa cầu” và giải phóng hoàn toàn miền Bắc năm 1954.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta giành thắng lợi đã chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của chủ nghĩa thực dân. Lực lượng dân quân, du kích và tự vệ đã góp công sức và xương máu vô cùng to lớn vào chiến công của toàn dân tộc.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chống Mỹ cứu nước đấu tranh giải phóng ở miền Nam, lực lượng DQTV ở miền Bắc đã tích cực tham gia cải cách ruộng đất, đánh đổ địa chủ, phong kiến, khôi phục và đẩy mạnh sản xuất, tham gia bắt gọn nhiều toán biệt kích Mỹ- Ngụy tung ra miền Bắc (nhất là những năm 1960 - 1963). Trong chống chiến tranh phá hoại miền Bắc chủ yếu bằng không quân, hải quân hiện đại của đế quốc Mỹ, lực lượng phòng không DQTV miền Bắc đã được tổ chức trên 700 phân đội, tăng cường trang bị nhiều loại vũ khí tương đối hiện đại như: Súng máy cao xạ 12,7mm, 14,5mm, 58 đại đội pháo cao xạ 37mm đến 100mm và 36 phân đội pháo binh các loại đánh tàu chiến địch... Lực lượng DQTV đã phối hợp với bộ đội, công an và nhân dân thực hiện “tay cày tay súng, tay búa tay súng” chiến đấu liên tục ngày đêm. Cùng với mạng lưới bắn máy bay địch bay thấp bằng súng bộ binh hình thành lưới lửa tầm thấp dày đặc vô cùng lợi hại, DQTV đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội phòng không, không quân bắn rơi nhiều máy bay địch. Riêng DQTV đã độc lập bắn rơi 424 máy bay các loại trong tổng số 4.181 máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc (chiếm 10%), bắt sống nhiều giặc lái, bắn chìm và bắn cháy nhiều tàu chiến địch.
Lực lượng DQTV còn làm tốt công tác phòng không nhân dân ở cơ sở, xây dựng nhiều công trình phòng tránh, khắc phục hậu quả đánh phá của địch, tiến hành rà bom mìn, thủy lôi, chống phong tỏa bằng đường biển... Đã có 183 triệu lượt người được huy động tham gia đảm bảo giao thông, phục vụ chiến đấu, phòng tránh sơ tán khắc phục hậu quả do địch gây ra, chi viện sức người sức của có hiệu quả cho chiến trường miền Nam. Những kinh nghiệm cực kỳ phong phú và sáng tạo trong xây dựng, hoạt động, chiến đấu của DQTV trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã đúc kết, rút kinh nghiệm để kịp thời áp dụng trong nhiệm vụ củng cố quốc phòng hiện nay.
Lực lượng dân quân du kích ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã tỏ rõ khả năng anh dũng phi thường, luôn chủ động đánh địch bằng mọi thứ vũ khí, vận dụng các hình thức đánh địch hết sức phong phú, sáng tạo trên khắp 3 vùng chiến lược; kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, 3 mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận), hình thành thế trận chiến đấu, phát triển các căn cứ chiến đấu, vành đai du kích, vành đai diệt Mỹ... thực hiện bám trụ kiên cường, giữ thế xen kẽ, cài răng lược với địch. Đây là một phương thức tác chiến, một cách đánh độc đáo, sáng tạo của chiến tranh du kích Việt Nam. Lực lượng dân quân du kích đã phối hợp với nhân dân đấu tranh quyết liệt chống địch dồn dân lập “Khu trù mật”, lập “Ấp chiến lược”, độc lập và phối hợp với bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực trong mọi hoạt động, góp phần đánh bại các chiến thuật “Trực thăng vận”, “Thiết xa vận” và các chiến lược chiến tranh của Mỹ - Ngụy như: “Bình định”, “Ấp chiến lược”, “Tát nước bắt cá”, “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”... Mặc dù địch có phương tiện cơ động bằng máy bay và cơ giới, nhưng chúng vẫn phải phân tán tới 90% quân số để đối phó với lực lượng vũ trang địa phương ta; đó là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng. Trong cuộc tổng tiến công mùa xuân 1975, lực lượng DQTV cùng bộ đội chủ lực và toàn dân miền Nam tiến công và nổi dậy đồng loạt; xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” đã góp phần vô cùng quan trọng vào Đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất Đất nước.
Về chiến tranh du kích ở miền Nam một số nhà báo và chính giới Mỹ đã phải thừa nhận: “Cuộc chiến tranh du kích là một nghệ thuật mà Việt Cộng đã trở thành bậc thầy, những nghệ sĩ vĩ đại trong nghệ thuật đó” hoặc “Chúng ta phải đương đầu với quân du kích tài tình chưa từng thấy trong lịch sử loài người” (R. Rát-xét, Chủ tịch Ủy ban quân lực Thượng Nghị viện Mỹ).
Từ khi cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội lực lượng DQTV đã làm nòng cốt cho nhân dân ở cơ sở khắc phục hậu quả chiến tranh, tích cực rà phá, bóc gỡ bom mìn địch, giải phóng hàng triệu héc ta đất canh tác để nhân dân khôi phục sản xuất, tiếp tục truy quét tàn quân, bọn phản động của địch còn cài cắm lại. Lực lượng DQTV đã được huy động hàng triệu lượt người tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, phối hợp và phục vụ bộ đội chiến đấu góp phần quan trọng vào thắng lợi của 02 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam, phối hợp với Công an nhân dân và các lực lượng khác thực hiện tốt việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Đất nước.
Quán triệt thực hiện đường lối đổi mới trong các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc khoá VI, VII, VIII và các Nghị quyết của Đảng về quốc phòng - an ninh. Đặc biệt là ngày 29/9/1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 55/BBT và ngày 29/01/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 29/HĐBT về xây dựng lực lượng DQTV trong tình hình mới.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Cấp ủy, chính quyền các cấp, các địa phương, lực lượng DQTV trong cả nước có bước phát triển mới cả về chất lượng, số lượng, biên chế trang bị. Tổ chức, biên chế tinh gọn hơn, chất lượng tổng hợp của DQTV được nâng cao, từng bước đổi mới nội dung huấn luyện và phương thức hoạt động. Chất lượng về chính trị từng bước được nâng lên, việc xây dựng DQTV ngày nay càng được gắn chặt với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, xây dựng khu vực phòng thủ trong các vùng trọng điểm, xung yếu như: đồng bào dân tộc, tôn giáo, trên các địa bàn biên giới, biển đảo, đô thị và việc củng cố dân quân binh chủng, tự vệ chuyên ngành. Lực lượng DQTV ở nhiều địa phương đã chuyển hướng mạnh mẽ vào nhiệm vụ chiến đấu trị an ở cơ sở, góp phần tích cực cùng quân, dân cả nước làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững ổn định chính trị, củng cố tăng cường quốc phòng – an ninh trên phạm vi cả nước cũng như ở mỗi địa phương. Lực lượng DQTV đã thực sự là công cụ chủ yếu bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân ở cơ sở.
Quán triệt các quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng trong tình hình mới, DQTV được rà soát, củng cố nâng cao chất lượng, trước hết là chất lượng chính trị ở cơ sở. Xuất phát từ thực tiễn, dưới sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, lực lượng DQTV đã bắt đầu nghiên cứu tổ chức và xây dựng theo hướng sẵn sàng đương đầu với cuộc chiến tranh hiện đại có sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch, lực lượng DQTV được giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự theo phương châm: “Cơ bản, thiết thực, chất lượng”.
Quán triệt các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc về tăng cường quốc phòng và an ninh, Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 8 (khoá IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chỉ thị số 16/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV trong tình hình mới. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh DQTV năm 1996, Pháp lệnh DQTV năm 2004, đặc biệt ngày 23/11/2009 Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và ban hành Luật DQTV. Đây là văn bản có tính pháp lý cao nhất của Nhà nước nhằm tiếp tục tăng cường chỉ đạo xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh toàn diện cả về tổ chức, huấn luyện, hoạt động và công tác bảo đảm theo chức năng, nhiệm vụ chặt chẽ thống nhất với cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự làm tham mưu. Lực lượng DQTV ngày càng được củng cố, huấn luyện hoạt động có hiệu quả lớn, phát huy tốt vai trò là một trong những lực lượng nòng cốt trong lao động sản xuất, bảo vệ sản xuất, phòng chống khắc phục hậu quả, thiên tai, địch hoạ và phối hợp cừng với các lực lượng khác góp phần giữ vững an ninh chính trị – Trật tự an toàn xã hội ở các địa phương cơ sở.
Có thể nói những văn bản trên là bước cụ thể hoá đồng bộ nhất, có ý nghĩa hết sức quan trọng đáp ứng kịp thời yêu cầu về nhiệm vụ xây dựng lực lượng DQTV trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước, đồng thời ngày càng khẳng định rõ vị trí, vai trò chiến lược của lực lượng DQTV để góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trải qua 80 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng DQTV là lực lượng vũ trang quần chúng, sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của nhân dân, gắn bó mật thiết với quê hương, làng bản, với từng căn nhà, đường phố, công, nông lâm trường, nhà máy, xí nghiệp. Sống, chiến đấu trong lòng dân, được nhân dân yêu thương, đùm bọc. Trong suốt 80 năm vượt qua đầy khó khăn, gian khổ, thử thách, hy sinh, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ DQTV đã hết lòng trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, chiến đấu kiên cường, mưu trí, dũng cảm lao động học tập, công tác hiệu quả, sáng tạo và đã lập nhiều chiến công to lớn; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân giành những thắng lợi lịch sử Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt nam XHCN và sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
Qua những năm tháng chiến đấu, công tác, lực lượng DQTV Việt Nam đã lập được nhiều thành tích vẻ vang. Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, DQTV đã tỏ rõ rất mực trung thành với dân tộc, với nhân dân, lập nên nhiều chiến công to lớn, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.
Vị trí, vai trò quan trọng chiến lược của lực lượng DQTV trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta thể hiện ở chỗ: Là hình thức tổ chức thích hợp nhất để thực hiện vũ trang toàn dân, toàn dân đánh giặc giữ nước; đánh địch ở mọi lúc, mọi nơi, để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. DQTV giữ vai trò chiến lược trong phát động chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân địa phương, làm chuyển biến so sánh lực lượng giữa ta và địch, tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Dân quân du kích tự vệ có nhiệm vụ nặng nề trong xây dựng và bảo vệ địa phương, là lực lượng nòng cốt bổ sung và phục vụ đắc lực cho yêu cầu chiến đấu của bộ đội chủ lực.
Để ghi nhận những công lao và thành tích của lực lượng DQTV qua các thời kỳ đã có 366 tập thể và 275 cá nhân được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” trong đó có những tập thể tiêu biểu như: Đại đội nữ dân quân Ngư Thủy - Lệ Thủy - Quảng Bình, Đại đội nữ dân quân Tiền Hải - Thái Bình, Trung đội lão dân quân Hoằng Hóa - Thanh Hóa, dân quân du kích huyện Củ Chi - Thành phố Hồ Chí Minh, huyện Giồng Trôm - Mỏ Cày - Bến Tre v.v... và hàng ngàn, hàng vạn tấm gương anh hùng tiêu biểu khác đã góp phần tô thắm thêm những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam - dân tộc anh hùng.
II. Dân quân tự vệ Bình Thuận 80 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và trưởng thành
1- Quá trình hình thành, phát triển, chiến đấu và trưởng thành
Trong kháng chiến chống Pháp, sau khi Bình Thuận cùng cả nước khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi trong Cách mạng tháng 8/1945, lực lượng dân quân tự vệ tỉnh Bình Thuận được thành lập ở hầu hết các phủ, huyện, xã, thôn, từ cấp tiểu đội đến trung đội làm nhiệm vụ đánh địch, bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân ở cơ sở. Lúc này, những chiến sĩ gia nhập lực lượng vũ trang cũng như dân quân tự vệ của tỉnh đều tự nguyện mang quần áo, cơm gạo của gia đình đi làm nhiệm vụ cách mạng. Mặc dù vũ khí trang bị còn thiếu thốn, ngoài những khẩu súng trường thu được của giặc Pháp, nhiều chiến sĩ dân quân tự vệ trong tỉnh còn sử dụng gươm, dao, giáo, mác làm vũ khí, nhưng với tinh thần dũng cảm chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, các đơn vị dân quân, tự vệ đã thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân ở cơ sở.
Khi Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai[1]], dân quân, du kích các xã, thôn trong tỉnh đã có sự phát triển lớn mạnh về lực lượng, kỹ năng chiến đấu ngày càng nâng cao. Tháng 6/1946, đơn vị du kích tập trung của tỉnh (còn gọi Bộ đội ông Tương) được thành lập[[2]]. Lực lượng du kích tập trung của tỉnh đã cùng các đơn vị dân quân, du kích của các huyện, thị, xã, thôn vừa làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ địa của cách mạng vừa phối hợp bộ đội địa phương liên tục đánh địch, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực và thu nhiều vũ khí của địch.
Song song với đánh địch, lực lượng dân quân, du kích còn làm nhiệm vụ bố phòng, xây dựng và bảo vệ các vùng căn cứ cách mạng; tăng gia, sản xuất tự túc lương thực để nuôi quân đánh giặc; đồng thời phối hợp với bộ đội địa phương tỉnh, huyện canh gác, đánh địch bảo vệ sản xuất, lương thực cho dân.
Trong thời kỳ này, phong trào du kích chiến tranh trên địa bàn Bình Thuận đã có sự phát triển mạnh mẽ. Lực lượng dân quân, du kích được xây dựng đều khắp các xã, thôn trong tỉnh. Đến đầu năm 1949, toàn tỉnh có 400 du kích thoát ly, 1.200 du kích các huyện và ở mỗi xã có từ 1 trung đội du kích trở lên.
Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, thực dân Pháp chấp nhận ký Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hòa bình ở Đông Dương và Việt Nam. Thực hiện Hiệp định, Bình Thuận chuyển quân tập kết ra Bắc chờ sau hai năm thực hiện tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Tuy nhiên, đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược miền Nam nước ta. Quân dân Bình Thuận cùng quân dân miền Nam tiếp tục cuộc chiến đấu chống xâm lược mới.
Trong quá trình kháng chiến chống giặc Mỹ xâm lược, lực lượng dân quân, du kích tỉnh Bình Thuận phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các xã, thôn, vùng căn cứ, giải phóng, đã vận dụng những kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược tổ chức đánh địch bằng nhiều hình thức phong phú, sáng tạo, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Đặc biệt, lực lượng du kích mật cài cắm trong các vùng tạm bị chiếm của địch là lực lượng luôn gây kinh hoàng cho bọn tề vệ, ác ôn tay sai của giặc Mỹ.
Lực lượng dân quân, du kích trong giai đoạn cách mạng này là lực lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân đánh giặc ở cơ sở, trực tiếp bám trụ các địa bàn xã, thôn, làm nhiệm vụ bảo vệ Đảng, chính quyền cơ sở, đi đầu trong các hoạt động tuyên truyền, vận động và tổ chức nhân dân vùng tranh chấp, chiếm đóng của địch nổi dậy đấu tranh “Diệt ác phá kìm”, “Chống dồn dân lập ấp chiến lược”; đồng thời, làm nòng cốt cho nhân dân tổ chức các đợt đấu tranh chính trị góp phần to lớn vào thắng lợi quân sự trên các chiến trường. Lực lượng dân quân, du kích các xã, thôn trong tỉnh còn độc lập tác chiến, liên tục tổ chức đánh quấy rối làm cho địch phải phân tán lực lượng đối phó, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội chủ lực đánh những đòn quyết định tiêu diệt kẻ thù. Đồng thời, dân quân, du kích cũng đã thường xuyên phối hợp bộ đội địa phương huyện, bộ đội chủ lực tỉnh và Quân khu tổ chức nhiều trận đánh tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, bảo vệ nhân dân bám đất, giữ làng sản xuất, xây dựng căn cứ cách mạng. Trong cuộc tổng tiến công mùa Xuân 1975, lực lượng dân quân, du kích Bình Thuận đã cùng bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực và nhân dân trong tỉnh tiến công giải quê hương, góp phần cùng cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Kết thúc chiến tranh, cả nước ta cùng bước vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lực lượng dân quân, du kích tỉnh Bình Thuận tiếp tục được Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp và nhân dân trong tỉnh chăm lo xây dựng, phát triển về mọi mặt, đã trở thành lực lượng nòng cốt cùng nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, kiến thiết quê hương, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự trị an ở cơ sở.
Phát huy truyền thống vẻ vang của mình, lực lượng DQTV Bình Thuận (tên gọi khi đất nước đã hòa bình, chính trị, xã hội ổn định) đã nỗ lực thực hiện tốt mọi nhiệm vụ xứng đáng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quê hương, là lực lượng tin cậy của Đảng, của chính quyền cơ sở. Hiện nay, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng khu vực phòng thủ và thế trận quốc phòng toàn dân, lực lượng DQTV đã được xây dựng đều khắp ở các xã, thôn, cơ quan, xí nghiệp, trường học. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lực lượng DQTV thường xuyên tổ chức tốt công tác huấn luyện, hội thao, hội thi và diễn tập. Qua kiểm tra đánh giá kết quả, hàng năm có 100% đơn vị DQTV xã, phường, thị, thôn, khu phố, cơ quan, xí nghiệp, nhà trường đều đạt khá, trong đó có nhiều đơn vị đạt giỏi. Lực lượng DQTV Bình Thuận đã giành rất nhiều giải cao của trong các đợt hội thi, hội thao của Quân khu 7 tổ chức.
Song song với việc thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, xây dựng lực lượng DQTV còn tích cực phối hợp với các cấp, các ngành tuần tra giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội bảo vệ sản xuất ở địa phương đem lại sự bình yên cho nhân dân.
2- Những thành tích của Dân quân tự vệ tỉnh Bình Thuận
Tám mươi năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng DQTV tỉnh Bình Thuận đã lập được nhiều chiến công lẫy lừng, oanh liệt, góp phần xứng đáng làm rạng rỡ thêm những trang sử vẻ vang của quê hương Bình Thuận và đã được Đảng, Nhà nước tặng nhiều danh hiệu cao quý. Cụ thể như:
- Dân quân du kích xã Hồng Thái, huyện Bắc Bình, chỉ tính thời gian từ năm 1973 đến năm 1975 đã diệt hơn 500 tên địch (có 26 tên Mỹ, 59 ác ôn), trong đó diệt gọn 1 trung đội, thu 72 súng, 3 máy phát điện, phá hủy 6 xe quân sự (có 3 xe tăng). Với những chiến công trên, Dân quân du kích xã Hồng Thái đã được khen thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng (1 hạng nhất và 1 hạng ba). Xã được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba. Ngày 6/11/1978, Dân quân du kích xã Hồng Thái được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Dân quân du kích xã Hồng Sơn, huyện Hàm Thuận Bắc: Từ năm 1971 đến năm 1975, đã kiên trì bám đất, tích cực đánh địch, diệt hơn 1.300 tên (có 250 tên Mỹ), trong đó đánh thiệt hại nặng 3 đại đội; thu gần 300 súng các loại, phá hủy 29 xe quân sự (có 2 xe tăng, xe bọc thép), bắn rơi 3 máy bay; 12 lần phá sập cầu cống, gây cho địch nhiều khó khăn trong việc đi lại. Dân quân du kích xã Hồng Sơn đã được khen thưởng 3 Huân chương Chiến công giải phóng (1 hạng nhất, 2 hạng nhì). Ngày 6/11/1978, Dân quân du kích xã Hồng Sơn được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Dân quân du kích xã Tân Thuận, huyện Hàm Thuận Nam: Từ năm 1961 đến năm 1975 đã chiến đấu và loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1.000 tên địch, thu trên 200 súng các loại. Dân quân du kích xã Tân Thuận đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng (1 hạng nhất, 1 hạng ba). Ngày 6/11/1978, Dân quân du kích xã Tân Thuận được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Dân quân du kích xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận Bắc, thành lập năm 1963. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã diệt 3.000 tên địch (có 350 tên Mỹ), trong đó diệt 5 đại đội; bắn rơi 4 máy bay; phá hủy 64 xe quân sự, thu 170 súng. Dân quân du kích Hàm Chính đã được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công giải phóng (1 hạng nhì, 2 hạng ba), có 100 đồng chí được tặng danh hiệu Dũng sĩ, có 1 đồng chí được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày 6/11/1978, Dân quân du kích xã Hàm Chính được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Dân quân du kích xã Hàm Liêm huyện Hàm Thuận Bắc: Từ năm 1969 đến năm 1972, cán bộ, đảng viên, du kích và nhân dân đã kiên cường bám trụ, bảo vệ tốt cơ sở. Dân quân du kích xã, thôn đã làm nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc, tổ chức 15 khu vực bố phòng, cắm trên một vạn chông, bố trí hàng nghìn lựu đạn, đạp lôi phòng thủ vùng căn cứ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dân quân, du kích toàn xã đã diệt gần 6.000 tên địch (có 350 tên Mỹ), trong đó diệt gọn 7 trung đội và hơn 80 chiêu hồi, cảnh sát; bắn rơi 8 máy bay; phá hủy 46 xe quân sự, đánh sập 22 lần cầu cống, bắt cải tạo 247 tên tề điệp, giáo dục 543 lính, tề ngụy, vận động 156 lính bỏ ngũ về với cách mạng. Xã được tặng thưởng 4 Huân chương Chiến công giải phóng (2 hạng nhì, 2 hạng ba), Dân quân du kích xã được tặng danh hiệu Đơn vị Thành đồng Quyết thắng. Ngày 20/12/1972, Phong trào chiến tranh du kích xã Hàm Liêm được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
3. Trách nhiệm của Đảng bộ, LLVT và nhân dân Bình Thuận
Phát huy truyền thống 80 năm vẻ vang của lực lượng DQTV, cán bộ, chiến sĩ DQTV và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau đây:
Một là, tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng bộ, LLVT và nhân dân về lịch sử hào hùng, truyền thống vẻ vang 80 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng DQTV Việt Nam. Có nhận thức sâu sắc và khẳng định: DQTV Việt Nam là một lực lượng cách mạng; Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với DQTV Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đùm bọc của nhân dân, DQTV Việt Nam đã làm nên những chiến công hiển hách; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; tiếp tục xây dựng DQTV cách mạng từng bước hiện đại, vững mạnh toàn diện, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ Chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới.
Hai là, phải đặc biệt coi trọng xây dựng DQTV tỉnh vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đẩy mạnh giáo dục làm cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững mục tiêu chiến đấu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước những diễn biến phức tạp của tình hình. Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu; thực hiện tốt phương châm “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”; chú trọng huấn luyện cho mọi đối tượng, sử dụng thành thạo vũ khí, trang bị trong biên chế; làm chủ, khai thác tốt các loại vũ khí hiện đại mới được trang bị. Tăng cường huấn luyện, diễn tập khu vực phòng thủ đáp ứng yêu cầu tác chiến trong tình hình mới.
Ba là, Tập trung xây dựng các tổ chức đảng trong Đảng bộ tỉnh trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Theo đó cần tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng và chất lượng cán bộ, đảng viên. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới, gắn với Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị (khoá XI)… nhằm xây dựng LLVT tỉnh tinh nhuệ, vững mạnh toàn diện.
Bốn là, Tiếp tục quán triệt quan điểm của Đảng về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết 28 Hội nghị BCH Trung ương lần thứ VIII (khóa XI); nêu cao tinh thần cảnh giác trước những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, nhất là những quan điểm đòi “phi chính trị hóa quân đội”, chia rẽ, gây mâu thuẫn giữa quân đội và nhân dân, giữa quân đội nhân dân và công an nhân dân.
*
Kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống của lực lượng DQTV, là dịp để chúng ta ôn lại lịch sử, truyền thống vẻ vang của dân tộc, bản chất, truyền thống tốt đẹp, những chiến công oanh liệt của lực lượng DQTV.
Kỷ niệm ngày truyền thống của lực lượng DQTV, chúng ta càng tưởng nhớ, ghi sâu trong từng trái tim, khối óc mỗi người về công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng ta, của dân tộc ta, danh nhân văn hóa của thế giới, người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân.
Qua đó, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý chí quật cường, ý thức tự lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn thử thách; ra sức xây dựng lực lượng DQTV ngày cang vững mạnh,
Cán bộ, chiến sĩ DQTV càng tự hào với truyền thống xây dựng, chiến đấu vẻ vang của mình, càng thường xuyên nâng cao cảnh giác, xây dựng ý chí chiến đấu, phấn đấu xây dựng lực lượng không ngừng lớn mạnh; mỗi cán bộ chiến sĩ trên từng vị trí công tác cần phấn đấu tích cực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó, xứng đáng với lời khen ngợi của Bác Hồ muôn vàn kính yêu: “Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc, vô luận kẻ địch hung bạo thế nào hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”./.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY
[1] Ngày 31/1/1946, thực dân Pháp đưa quân từ Phan Rang (Ninh Thuận) theo quốc lộ 1 tiến vào đánh chiếm tỉnh Bình Thuận lần thứ hai.
[2] Tháng 10/1947, đơn vị này nhập vào Trung đoàn 82.